Danh Xưng Bộ Đội Cụ Hồ Là Do Ai Mới Tặng Cho Cán Bộ Chiến Sĩ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Danh Xưng Bộ Đội Cụ Hồ Là Do Ai Mới Tặng Cho Cán Bộ Chiến Sĩ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Căn cứ khoản 1 Điều 4 Luật cán bộ, công chức 2008 quy định về cán bộ như sau:

Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ra sao?

Căn cứ Điều 8 Luật Cán bộ công chức 2008 quy định về nghĩa vụ của công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân như sau:

Như vậy, bạn thấy rằng nghĩa vụ của một người công chức đối với Đảng là trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia. Chấp hành nghiêm chỉnh gương mẫu trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với nhân dân thì một người công chức phải thể hiện sự tôn trọng, tận tụy phục vụ nhân dân bên cạnh đó liên hệ chặt chẽ với nhân dân và lắng nghe ý kiến cũng như phải chịu sự giám sát của nhân dân.

Với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ một vùng biển, đảo rộng lớn, có các mục tiêu trọng yếu là quần đảo Trường Sa và căn cứ quân sự Cam Ranh - vùng biển có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh của đất nước. Những năm qua, Vùng 4 Hải quân luôn hoàn thành tốt và xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hải quân nhân dân Việt Nam đã và luôn được Đảng, Nhà nước, Quân uỷ Trung ương - Bộ Quốc phòng quan tâm, đầu tư xây dựng thành lực lượng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Quân chủng đã tổ chức tiếp nhận và đưa vào sử dụng nhiều loại trang bị, vũ khí mới, hiện đại. Theo đó, Vùng 4 Hải quân vinh dự là đơn vị trọng điểm và được đầu tư nhiều phương tiện, khí tài hiện đại.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình biển Đông, nhất là khu vực biển, đảo thuộc Vùng 4 quản lý, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân đã thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ nhiệm vụ, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Phát huy truyền thống “Chiến đấu anh dũng, khắc phục khó khăn, đoàn kết hiệp đồng, làm chủ vùng biển”, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân nguyện đoàn kết một lòng, kế tục sự nghiệp cha anh đi trước, ra sức xây dựng vùng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo được phân công, xứng đáng với sự tin cậy, yêu mến của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Chuẩn đô đốc Ngô Văn Thuân - Chính ủy Vùng 4 Hải quân khẳng định, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân đã và đang nỗ lực phấn đấu vươn lên, không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, trong bất luận hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; quyết tâm bảo vệ từng tấc đảo, sải biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên vùng biển đảm nhiệm, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo ngày càng nặng nề, Vùng 4 Hải quân không ngừng phát huy truyền thống, xây dựng vùng thực sự vững mạnh về mọi mặt. Trong đó, những phẩm chất “Bản lĩnh vững vàng, trung thành tuyệt đối, trí tuệ hanh thông, đoàn kết nghĩa tình, hoàn thành nhiệm vụ” là nét văn hóa đặc trưng của bộ đội Vùng 4 Hải quân, luôn được phát huy, tô thắm và làm sáng đẹp hơn phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sỹ Hải quân” trong tình hình mới.

“Lời Bác căn dặn “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Chúng ta phải biết giữ gìn lấy nó” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân. Bất luận hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 cũng đoàn kết, khắc phục khó khăn, mài sắc ý chí quyết tâm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân”, Chuẩn đô đốc Ngô Văn Thuân cho biết.

Hiếm có dân tộc nào trên thế giới mà nhân dân lấy tên vị lãnh tụ tối cao của mình đặt cho quân đội. Đây vừa là tình cảm, vừa là niềm tin của quần chúng dành cho lực lượng vũ trang (LLVT). Hiếm có một dân tộc nào mà hình ảnh người lính lại được toàn dân coi đó là hình mẫu của con người trong thời đại mới, để hết lòng tin yêu, quý trọng, động viên mọi thế hệ con cháu kế tiếp và noi theo gương sáng của Bộ đội Cụ Hồ như dân tộc Việt Nam ta.

Bộ đội Cụ Hồ là cách gọi rất Việt Nam, thật gần gũi. Bộ đội Cụ Hồ không chỉ là tên gọi trìu mến mà nhân dân dành cho quân đội mà còn là một danh hiệu, một vinh dự lớn đối với những chiến sĩ của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.

Nhân dân ta gọi Bộ đội Cụ Hồ vì "Cụ Hồ"-tên gọi trìu mến của nhân dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân ta, là hiện thân của niềm tin và sức mạnh, là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả những giá trị cao đẹp của dân tộc Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Nhân dân ta gọi quân đội của mình là bộ đội của Cụ Hồ vì cảm nhận một cách sâu sắc quan hệ đặc biệt hiếm có giữa Bác và quân đội, Bác và những người chiến sĩ. Mỗi bước trưởng thành, mỗi chiến công của quân đội đều gắn liền với sự giáo dục, rèn luyện của "Người cha thân yêu", nên nhân dân gọi người chiến sĩ của quân đội cách mạng là Bộ đội Cụ Hồ. Gọi bộ đội là Bộ đội Cụ Hồ còn là vì bản thân các chiến sĩ quân đội đã luôn luôn xứng đáng với niềm tin của Người. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trở thành một mẫu hình về con người mới có lý tưởng cao đẹp, có đạo đức trong sáng, thực hiện trọn vẹn, xuất sắc chỉ thị, những lời dặn và niềm tin sâu sắc của Bác. Đi tìm nguồn gốc sâu xa của kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ từ các nhân tố mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc.

Nếu xét ở góc độ truyền thống dân tộc và truyền thống văn hóa dân tộc, kiểu mẫu Bộ đội Cụ Hồ còn có nguồn gốc sâu xa hơn, bởi vì, nó không chỉ là sản phẩm của 75 năm mà còn bắt nguồn, nối tiếp và phát triển của kiểu mẫu nghĩa sĩ, nghĩa binh, nghĩa quân của cả nghìn năm lịch sử. Nhân cách Bộ đội Cụ Hồ có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử đấu tranh, trong truyền thống văn hóa lâu đời và độc đáo của dân tộc ta. Nó có sức sống bền vững, có khả năng được củng cố, phát triển suốt chiều dài lịch sử.

Những đặc trưng cơ bản của danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ được cô đúc trong lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-1964) là: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Vì chung một lý tưởng, đều là con em nhân dân nên Bộ đội Cụ Hồ có phẩm chất rất đặc biệt, đó là sâu thẳm tình đồng đội. Đồng đội đồng thời cũng là đồng chí. Đây là nét rất đặc thù của quân đội cách mạng. Nếu như những người lính trước đây coi nhau như "huynh đệ" (anh em) thì đến giữa thế kỷ 20, những chiến sĩ Việt Nam đã nâng lên thành tinh thần đồng đội, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như khi ra trận. "Nghĩa tình đồng đội", "tình bạn chiến đấu", "đi tìm đồng đội", "tâm tình đồng đội"... từ lâu trở thành những nét đẹp trong đời sống quân đội và từ đó lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng người Việt Nam.

Bộ đội Cụ Hồ không chỉ là những người cầm súng thuần túy. Từ khi mới ra đời, Quân đội ta đã được xác định nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất và công tác. Trong thời chiến, lúc hòa bình, 3 chức năng chiến đấu, công tác và sản xuất đều được coi trọng. Gan dạ và dũng cảm, mưu trí và sáng tạo, tự lực, tự cường, kiên nhẫn và nhiệt tình, luôn luôn là những truyền thống tốt đẹp của người chiến sĩ QĐND Việt Nam. Truyền thống này phải chăng có nguồn gốc từ thời Trần với chính sách "ngụ binh ư nông"?

Một nét đặc trưng tiêu biểu khác của Bộ đội Cụ Hồ, đó là tinh thần kỷ luật tự giác cao. Trước đây, trong lịch sử, những người lính Việt Nam đã có truyền thống "quân lệnh như sơn"; thời nay, Bộ đội Cụ Hồ luôn được rèn luyện bằng "10 lời thề", "12 điều kỷ luật", bằng việc chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mệnh lệnh của cấp chỉ huy.

Ý thức chấp hành mệnh lệnh của Bộ đội Cụ Hồ 75 năm qua dựa trên tinh thần tự giác là chủ yếu. Tinh thần "quân lệnh như sơn" ở đây đã được thực hiện bằng tình đồng đội, tình "huynh đệ"-và nhiều hơn, chính là lòng tự trọng, danh dự. Tinh thần kỷ luật cao đồng thời chính là cội nguồn tạo thành sức mạnh bách chiến, bách thắng của Bộ đội Cụ Hồ, của QĐND Việt Nam.

Bộ đội Cụ Hồ còn có tinh thần quốc tế cao cả. Từ truyền thống nhân ái của dân tộc, "tắt lửa, tối đèn có nhau", "thương người như thể thương thân", 75 năm qua, với tinh thần "giúp bạn là tự giúp mình" đầy nhân văn, nhân ái, nhiều thế hệ chiến sĩ QĐND Việt Nam đã trở thành người chiến sĩ quốc tế, những "tình nguyện quân", vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ và nhân dân Lào, Campuchia trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, các cuộc chiến đấu chống lại các thế lực tay sai, phản động. Tinh thần quốc tế cao cả, vô tư của Bộ đội Cụ Hồ là một nét rất mới trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc Việt Nam.

Những đặc trưng nổi bật của Bộ đội Cụ Hồ, như: Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân; có tinh thần đồng đội, tinh thần kỷ luật tự giác và ham học hỏi, cầu tiến bộ... trở thành những hành trang quý báu trên hành trình lớn lên, trưởng thành và chiến thắng của các LLVT ta. Đó cũng là nét văn hóa quân sự đặc trưng trong nền văn hóa Việt Nam mới, văn hóa vì con người dựa trên truyền thống và cốt cách Việt Nam.

Sự xuất hiện của Bộ đội Cụ Hồ trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc mới có 75 năm. Thời gian 75 năm đó so với lịch sử dân tộc là không dài, nhưng chỉ bằng thời gian đó, hình tượng Bộ đội Cụ Hồ đã đi vào lịch sử, đi vào đời sống đất nước, đời sống cộng đồng một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn và trở thành một trong những giá trị văn hóa tiêu biểu của thời đại mới. Và cũng từ đó, Bộ đội Cụ Hồ trở thành nhân vật trung tâm của văn hóa, văn nghệ cách mạng với những biểu hiện đẹp đẽ, đó đã là hình tượng tiêu biểu và đáng tự hào của dân tộc Việt Nam anh hùng, được nhân dân ca tụng là "con người đẹp nhất", được coi là khát vọng vươn tới của tuổi trẻ.

Nhân cách Bộ đội Cụ Hồ, tất nhiên, nó không phải là sản phẩm tự phát, mà đó là quá trình rèn luyện, phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Bởi vậy, việc tiếp tục nuôi dưỡng, xây dựng, phát triển kiểu mẫu nhân cách đó lúc này và trong tương lai là nhiệm vụ cực kỳ to lớn và phức tạp. Cùng với việc khẳng định ý nghĩa to lớn của những giá trị trong nhân cách Bộ đội Cụ Hồ được định hình trong 30 năm kháng chiến, đồng thời, cần phải chú ý tính đặc thù của nó, vì đó là những giá trị được cổ xúy, được lựa chọn, nhằm tạo nên những kiểu mẫu nhân cách người lính trong điều kiện có chiến tranh, đang chiến tranh. Khi lịch sử dân tộc chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất lượng (kết thúc chiến tranh, đất nước có hòa bình, trực tiếp chiến đấu sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa xây dựng, vừa bảo vệ Tổ quốc), một mặt, phải giữ vững các giá trị cốt lõi, cơ bản đã được định hình từ những năm kháng chiến, mặt khác phải bổ sung những giá trị cần thiết cho nhân cách người chiến sĩ thời kỳ mới.

Sự ra đời và phát triển của một kiểu mẫu nhân cách mới không bao giờ là một quá trình tự phát hay chờ có sẵn, tự nhiên mà có. Đó là cuộc đấu tranh không mệt mỏi, đầy trí tuệ, một công việc cực kỳ công phu, tinh tế và sâu sắc-sự nghiệp "trồng người" cần trăm năm nuôi dưỡng và chăm sóc như Bác Hồ dạy.

Hình ảnh cao đẹp với những giá trị văn hóa quân sự sâu sắc của nhân cách Bộ đội Cụ Hồ đã được yêu thương và quý trọng trong những năm qua chỉ có thể được tiếp tục khẳng định và phát triển trong thời gian tới trên cơ sở của một quá trình nuôi dưỡng và xây dựng với một công phu to lớn và một trí tuệ khoa học...

GS, TS ĐINH XUÂN DŨNG, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương