Mỏ Vàng Bên Lào

Mỏ Vàng Bên Lào

Cụ thể, Ông Nguyễn Trường Giang, Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam - Bộ Tài nguyên và Môi trường, vừa ký văn bản trả lại hồ sơ của Công ty Cổ phần Nhẫn đề nghị gia hạn Giấy phép khai thác khoáng sản số 1604/2016 cho phép công ty khai thác quặng vàng gốc tại khu vực Sa Phìn thuộc xã Nậm Xây, huyện Văn Bàn, Lào Cai.

Vinachem triển khai khai thác muối mỏ lớn tại Lào

08:43 SA @ Thứ Hai - 24 Tháng Chín, 2012

Với kết quả thăm dò trữ lượng muối Kali (KCl) lên tới hàng trăm triệu tấn và muối ăn (NaCl) lên tới hàng tỷ tấn, dự án muối mỏ do Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) đang triển khai tại huyện Nongbok, tỉnh Khammouan, Lào sẽ đóng vai trò quan trọng giúp Việt Nam chủ động được nguyên liệu cho sản xuất trong nước, nhất là sản xuất phân bón, hóa chất, đồng thời tiết kiệm được ngoại tệ từ việc giảm nhập khẩu.Đủ điều kiện khai thác chế biến công nghiệpSau bốn năm triển khai thăm dò trữ lượng kể từ khi được Chính phủ Lào cấp phép vào tháng 8/2008, Dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác và chế biến muối mỏ tại huyện Nongbok, tỉnh Khammouan, Lào vừa được hội đồng chuyên gia hai nước Việt Nam và Lào công nhận đủ điều kiện khai thác, chế biến công nghiệp. Kết quả thăm dò cho thấy, hai sản phẩm chính của dự án là muối kali (KCl) có cấp trữ lượng khoảng 350 triệu tấn, cấp tài nguyên dự báo 1,6 tỷ tấn; muối ăn (NaCl) có cấp trữ lượng khoảng trên 2 tỷ tấn, cấp tài nguyên dự báo lên đến 9 tỷ tấn.Với căn cứ quan trọng này, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã trình Bộ Công Thương thiết kế cơ sở Dự án để có thể sớm hoàn tất mọi thủ tục đầu tư triển khai. Theo đó, Dự án sẽ gồm khu vực khai thác nằm ở phía Nam của khu mỏ Nonglom có diện tích khoảng 4 km2. Tại đây năm đầu tiên xây dựng 16 hầm khai thác, mỗi năm hoạt động tiếp theo sẽ xây dựng thêm 7-8 hầm. Khu vực nhà máy chế biến dự kiến xây dựng tại phía Đông của mỏ Nonglom trên diện tích khoảng 175.000 m2 để chế biến hai sản phẩm chính đạt tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế gồm: KCl K60 (hàm lượng KCl 95%) với công suất 320.000 tấn/năm và sản phẩm phụ là muối chất lượng cao NaCl hàm lượng 98% với công suất 300.000 tấn/năm.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, đây là dự án phù hợp với Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, có tính đến năm 2030 (đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt); phù hợp Quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối mặt hàng phân bón giai đoạn 2010-2020, có xét đến năm 2025. Bên cạnh đó, khu vực thăm dò, khai thác và chế biến muối mỏ tại huyện Nongbok, tỉnh Khammouan cũng khá thuận lợi cho khai thác, vận chuyển sản phẩm trong khu vực thăm dò và vận chuyển về Việt Nam . Vì vậy, Dự án được triển khai sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu phân bón cho sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và cung cấp muối NaCl để sản xuất các hóa chất khác như điện phân xút-clo, sản xuất soda.Đáp ứng mục tiêu giảm nhập khẩuCục trưởng Cục Hóa chất Bộ Công Thương, đồng thời là tổ trưởng Tổ tư vấn góp ý thiết kế cơ sở Dự án, Tiến sĩ Phùng Hà cho biết, hiện Việt Nam vẫn phải nhập khẩu toàn bộ lượng KCl chủ yếu từ Belarus và Australia để đáp ứng nhu cầu phân bón Kali cho sản xuất nông nghiệp trong nước.Theo đó, với nhu cầu phân Kali dao động trong khoảng 700-800.000 tấn/năm, trong khi giá loại phân bón này trên thị trường thế giới hiện ở mức 450 USD/tấn, mỗi năm Việt Nam đang phải mất trên 350 triệu USD cho nhập khẩu phân bón. Vì vậy, nếu Dự án được triển khai sớm với công suất dự kiến 320.000 tấn/năm, Việt Nam sẽ giảm được đáng kể sản lượng phân bón Kali nhập khẩu và nhờ vậy tiết kiệm được đáng kể ngoại tệ cho đất nước.Không chỉ giúp tiết kiệm ngoại tệ, việc triển khai Dự án muối mỏ Lào còn góp phần giải quyết cuộc “khủng hoảng” thừa muối ăn, thiếu muối công nghiệp và muối chất lượng cao hiện nay của Việt Nam.Thực tế cho thấy, với lợi thế về địa lý có bờ biển chạy dài dọc theo đất nước, Việt Nam có thể sản xuất tới 800.000 tấn muối ăn/năm nhưng chất lượng muối làm ra thường lẫn nhiều tạp chất và không đạt được độ khô cần thiết nên không đáp ứng được các tiêu chuẩn muối nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp hóa chất cơ bản như Xút-Clo, công nghiệp chế biến thực phẩm như sản xuất bột ngọt và y tế như sản xuất dịch truyền. Vì vậy, nhiều năm nay vẫn tồn tại nghịch lý muối ăn dư thừa nhưng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu trên 300.000 tấn muối công nghiệp/năm.Theo ông Hà, nhu cầu muối công nghiệp từ năm 2013 trở đi sẽ còn tăng mạnh hơn khi Nhà máy sản xuất Sođa ở Khu Kinh tế Chu Lai (Quảng Nam) đi vào hoạt động trong tháng 11 tới. Hiện người đại diện Nhà máy này đã có văn bản tới Bộ Công Thương đề xuất nhu cầu nhập khẩu mỗi năm 200.000 tấn muối công nghiệp để có nguyên liệu sản xuất.Trong khi đó, sản phẩm thu được từ dự án muối mỏ Lào là muối có hàm lượng NaCl đạt 98%, tốt hơn chất lượng muối sản xuất trong nước thường chỉ có hàm lượng NaCl đạt tối đa 97%. Vì vậy, sản phẩm muối khai thác từ Lào có thể chỉ cần thêm công đoạn tinh lọc là có thể sử dụng cho sản xuất công nghiệp. Thêm vào đó, với sản lượng dự kiến 300.000 tấn muối chất lượng cao/năm, Dự án cũng sẽ đảm bảo cung cấp được ổn định nguồn nguyên liệu, giúp doanh nghiệp sản xuất hóa chất chủ động hơn trong sản xuất.Tuy nhiên, từ nay đến khi triển khai xây dựng, dự án vẫn còn phải chờ Chính phủ Lào thông qua Báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng như chờ xin ý kiến của Chủ sở hữu liên quan đến tổng mức đầu tư, ông Hà cho biết./.

Gian hàng VNF tại Vietstock 2016 nhận được sự quan tâm đặc biệt của ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi

Theo phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030, định hướng đạt tổng sản lượng thủy sản lên đến 9 triệu tấn. Chỉ tính riêng lượng phụ phẩm thủy, hải sản (chiếm tỷ trọng bình quân 54% khối lượng) đã lên đến gần 4,86 tấn, nếu không được đưa vào khai thác/sử dụng một cách hợp lý mà thải bỏ ra môi trường sẽ gây ra nhiều vấn đề ô nhiễm. Tại Việt Nam, với công nghệ xử lý truyền thống, chỉ 23% trong tổng số lượng phụ phẩm thải bỏ được dùng vào việc sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp như phân bón hoặc thức ăn chăn nuôi và 7% dùng vào việc sản xuất sản phẩm có giá trị tăng cao, hơn một nửa lượng phụ phẩm còn lại bị thải bỏ. Trong khi ở các nước ngành phụ phẩm phát triển, trung bình có thể xử lý được 75%. Thậm chí ở Na Uy, có đến 95% lượng phụ phẩm được tái sử dụng, ngành công nghiệp phụ phẩm gần như đạt hiệu quả tối ưu.

Riêng về ngành tôm, Việt Nam nằm trong top 5 quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới. Sản lượng tôm Việt Nam năm 2014 đạt gần 600.000 tấn và dự kiến đạt 800.000 tấn đến năm 2020. Phụ phẩm tôm chiếm tỷ trọng bình quân ở mức 35 – 45% trọng lượng cơ thể (tùy theo loại tôm sú, tôm thẻ…), ngoài ra, protein trong đầu tôm còn có chứa carotenoids (một dạng sắc tố hữu cơ, chủ yếu là astaxanthin – sắc tố có màu đỏ thẫm), đầu vỏ tôm còn là nguyên liệu tốt nhất trong số các nguyên liệu làm chitin/chitosan.

Với kỳ vọng đưa ngành chế biến phụ phẩm trở thành một trong những ngành nghề trọng điểm đáp ứng xu hướng “Không chất thải – zero waste” toàn cầu (tận dụng triệt để nguyên liệu đầu vào – giảm thiểu tối đa lượng chất thải đầu ra), VNF đã lên kế hoạch đầu tư khai thác “mỏ vàng” phụ phẩm này tại Việt Nam. Qua nhiều năm nghiên cứu, ứng dụng, đến nay VNF đã sản xuất thành công rất nhiều sản phẩm giá trị gia tăng từ nguyên liệu đầu vỏ tôm. Có thể phân ra 4 nhóm sản phẩm chính, trong đó có một số sản phẩm tiêu biểu đã và đang được thị trường tiêu thụ trong nước chấp nhận, gồm:

Nhóm thực phẩm/nguyên liệu sản xuất thực phẩm: Bột tôm, dịch đạm tôm. Sử dụng làm nguyên liệu trong sản xuất thực phẩm (sợi mì, gia vị mì, snack, gia vị snack, sốt các loại…), nấu ăn (nêm nếm) hoặc ăn trực tiếp, nhằm tăng hương vị và dinh dưỡng tự nhiên cho sản phẩm. Đây là bước tiến lớn trong ngành khi dịch đạm của VNF có thể dùng để thay thế cho các hóa chất hương liệu, phụ gia tổng hợp có hại cho sức khỏe người dùng; Đồng thời đảm bảo chất lượng cao và giá thành cạnh tranh. Do đó, VNF đã nhận được nhiều quan tâm từ các đối tác lớn trong ngành thực phẩm.

Nhóm thức ăn chăn nuôi/Nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi: Chất dẫn dụ: Dịch tôm thủy phân, dịch mực thủy phân. Sử dụng làm nguyên liệu thức ăn thủy sản. Bổ sung chất dinh dưỡng, mùi dẫn dụ hấp dẫn, kích thích tôm cá bắt mồi nhanh và hiệu quả. Nhiều nhóm các trường đại học trong ngành thủy sản và nông nghiệp đã thực hiện khảo nghiệm hiệu quả của SSE nghiên cứu trên cá rô phi, heo và cá tra đã cho kết quả khả quan cả về mặt hiệu quả kinh tế và hiệu quả chăn nuôi. Cụ thể, SSE cho kết quả vượt trội ở heo, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) giảm đáng kể từ 2,44 xuống 2,15, dẫn đến chi phí thức ăn giảm 11%, doanh thu tăng 31% và lợi nhuận tăng 42%. Kết quả tương tự cho thực nghiệm trên cá tra và cá rô phi, việc sử dụng SSE giúp tăng tỷ lệ sống sót cho vật nuôi 8 – 12% và tăng lợi nhuận 15 – 25% so nhóm đối chứng. Việc nghiên cứu thành công dòng sản phẩm chất dẫn dụ được xem như một bước đột phá, tạo ra giá trị gia tăng hoàn toàn mới cho ngành phụ gia thức ăn chăn nuôi.

Nhóm nguyên liệu sử dụng cho ngành dược phẩm/công nghiệp: Chitin/Chitosan là những polysaccharide (phân tử carbohydrate) nguồn gốc tự nhiên, chiết xuất từ vỏ tôm tươi với khả năng sát khuẩn và tạo màng sinh học, có thể ứng dụng đa dạng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau như: Y sinh học và dược phẩm; Hóa chất và công nghiệp; Mỹ phẩm; Thực phẩm và Dinh dưỡng; Bảo quản trái cây, rau củ quả; Xử lý nước thải; Nông nghiệp. Theo báo cáo của Global Industry Analysts – GIA, năm 2015, giá trị thương mại của Chitosan ước đạt 20 tỷ USD. Hiện, VNF đang tiếp tục hợp tác với các tổ chức nghiên cứu ở châu Âu, Đại học Harvard và Đại học Nha Trang… để nghiên cứu sâu hơn về dẫn xuất chitosan, vì đây là nguyên liệu càng nghiên cứu ứng dụng sâu, giá trị mang lại càng cao.

Nhóm phân hữu cơ vi sinh: Tận dụng bùn thải thu được sau quá trình sản xuất của VNF kết hợp với một số vi sinh có lợi cho đất và cây trồng tạo ra phân bón hữu cơ vi sinh.

Sản phẩm VNF đã và đang được xuất khẩu đi nhiều quốc gia trên thế giới gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines, Malaysia… VNF xác định tầm nhìn của Công ty là trở thành nhà sản xuất đạm và thực phẩm hàng đầu của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, tạo ra các sản phẩm giá trị cao cho khách hàng. Không chỉ dừng lại là một doanh nghiệp chế biến phụ gia cho các ngành, giá trị lớn nhất mà VNF mang lại đó là tư duy khác biệt về giá trị đầu vỏ tôm, đầu tư mạnh cho công nghệ và quan tâm đến vấn đề môi trường.

Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác về xử lý phụ phẩm thủy sản bằng phương pháp sinh học thân thiện với môi trường giữa 3 bên Công ty Brenntag Việt Nam, VNF và Trường Đại học Nha Trang

Thách thức lớn nhất mà bất cứ doanh nghiệp nào bước chân vào sân chơi “biến rác tôm thành vàng” cũng phải đối mặt là việc đầu vỏ tôm sẽ bị phân hủy trong vòng 4 giờ đồng hồ nếu không được bảo quản lạnh đủ tiêu chuẩn. VNF giải bài toán này bằng việc đặt nền móng xây dựng 2 nhà máy gần bên các nhà máy chế biến tôm lớn nhất trong khu vực. Cách làm này giúp giảm thiểu chi phí lập các điểm thu mua lưu động, kiểm soát đồng bộ chất lượng phụ phẩm đầu vào của tất cả các nhà máy sản xuất tôm ngay tại nguồn, chủ động được sản lượng thu mua phục vụ công tác điều tiết giá và năng suất thành phẩm.

Bên cạnh đó, VNF cũng rất chú trọng đến vấn đề bảo vệ chất lượng sản phẩm từ khâu thu mua nguyên liệu, vận chuyển về nhà máy, sản xuất và lưu kho. 100% nguyên liệu phụ phẩm giữ được độ tươi được lấy trực tiếp từ các nhà máy thủy, hải sản lớn trong vùng. Phòng lạnh/kho cấp đông/xe tải đông lạnh đảm bảo yêu cầu bảo quản sản phẩm. Toàn bộ thành phẩm/thứ phẩm được thu gom bằng hệ thống băng chuyền đảm bảo vệ sinh và giảm thiểu thất thoát. Tất cả nguyên liệu/xe/phuy/đồ chứa sau khi được bốc dỡ sẽ được rửa bằng nước sạch thông qua hệ thống thủy lực áp suất cao. Toàn bộ việc sản xuất được tổ chức quản lý chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn ISO, GMP, HACCP. Thông qua bộ nhật ký công việc và kiểm tra chất lượng định kỳ cho phép sớm phát hiện những lỗi hoặc sự cố phát sinh. Tất cả thành phẩm cũng được kiểm tra độc lập sau khi sản xuất và định kỳ lưu kho.

Nhờ có chiến lược phát triển phù hợp, VNF đã liên tục cho ra đời nhiều sản phẩm cải tiến giá trị cao, phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng và thân thiện môi trường; Từ đó, chẳng những đảm bảo khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp, mà còn góp phân nâng cao giá trị phụ phẩm tôm, biến “mỏ vàng phụ phẩm” thành một ngành công nghiệp mới thực sự cho nước nhà.